Con nuôi có quyền thừa kế như con đẻ đúng hay sai?

dich vu ke toan tron goi
Dựa trên quy định tại khoản một Điều 676 Bộ luật Dân sự thì những người thừa kế theo như luật được chia thành ba hàng thừa kế; hàng thừa kế thứ nhất gồm: thê tử, chồng, bố đẻ, u đẻ, cha nuôi, má nuôi, con đẻ, con nuôi của người trở về cát bụi. Dựa trên nguyên tắc trên thì con nuôi của người về với đất mẹ thuộc hàng thừa kế thứ nhất, vì vậy cũng được thừa kế tài sản của người về với đất mẹ để lại.


Không những thế cũng cần lưu ý: chẳng hề toàn phần các người được đồng ý nhận là “con nuôi” đều có khả năng được thừa kế di sản của người qua đời để lại. Dựa trên nguyên tắc tại Điều 68 luật Hôn nhân và gia đình thì người được chấp nhận mang đến con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống. Người trên 15 tuổi cũng có khả năng được nhận mang lại con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người trở về cát bụi năng lực hành vi dân sự hoặc làm cho con nuôi của người già yếu cô đơn.

 Con nuôi có quyền thừa kế như con đẻ đúng hay sai?
 Con nuôi có quyền thừa kế như con đẻ đúng hay sai?

Ngoài điều kiện nói trên, Điều 72 luật pháp Hôn nhân và gia đình còn nguyên tắc “Việc đồng ý nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch”.

Với các nguyên tắc nhắc trên, nếu bạn được bố mẹ nuôi nhận nuôi từ khi bạn dưới 15 tuổi (hoặc thuộc những bối cảnh trên 15 tuổi vẫn được làm cho con nuôi) và việc nhận nuôi con nuôi được thực hành theo như đúng thủ tục do luật nguyên tắc thì bạn sẽ được quyền hưởng gia sản thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi để lại, bình đẳng với các con đẻ của người qua đời.

Dựa trên nguyên tắc tại Điều 11 luật Hôn nhân và gia đình, thì “Nam, nữ không đăng ký hôn phối mà chung sống với nhau như vợ chồng thì ko được luật pháp thừa nhận là bà xã chồng”.


Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/01/2001 cũng nêu rõ: bắt đầu từ tiếp theo ngày 1/1/2003 mà họ ko đăng ký kết duyên, thì theo như nguyên tắc tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, họ ko được chứng nhận là bà xã chồng … nếu họ có đề nghị về nuôi con và chia tài sản, thì Tòa án vận dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết căn cứ hồ sơ chung.

Can dự đến hậu quả pháp lý của việc “không được luật chứng nhận là bà xã chồng”, khoản 3 Điều 17 pháp luật hôn nhân và gia đình quy định: gia sản được giải quyết theo nguyên tắc di sản riêng của người nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; di sản chung được chia dựa trên thỏa thuận của những bên; nếu không thỏa thuận được thì đề xuất Tòa án khắc phục, có tính tới công sức góp phần của mỗi bên; ưu tiên bảo kê lợi quyền chính đáng của phụ nữ và con.

Theo những nguyên tắc vừa viện dẫn thì việc người phụ nữ chung sống với một người đàn ông nhưng không có giá thú nên về mặt pháp lý, họ ko được luật thừa nhận là nương tử chồng và như vậy, người phụ nữ sẽ không được coi là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất để hưởng thừa kế của người qua đời như những bối cảnh bà xã hưởng thừa kế của chồng.

Tuy nhiên, nếu trong giai đoạn sống chung, người phụ nữ có công sức góp sức hoặc có tạo lập tài sản chung với người đã về với đất mẹ thì ngoài việc được lấy lại các di sản riêng của mình, người phụ nữ còn được lợi 1 phần tài sản trong khối gia sản của người đã chết, tương ứng với công sức góp công.

Nhận xét