Điều kiện để được công nhận quyền hưởng di sản thừa kế

dich vu ke toan tron goi
Pháp luật thừa kế của Việt Nam nguyên tắc người thừa kế có quyền đồng ý nhận tài sản hoặc từ chối chấp nhận tài sản nếu sự chối từ quyền hưởng gia sản của người thừa kế tương ứng với các cơ hội mà luật đã quy định


Điều 642 BLDS quy định về việc chối từ đồng ý nhận tài sản như sau:

“1. Người thừa kế có quyền từ khước chấp nhận gia sản, trừ trường hợp việc không nhận nhằm trốn ngăn chặn việc tiến hành nghĩa vụ di sản của mình đối với người khác.

Việc từ khước đồng ý nhận di sản phải được tạo lập thành văn bản; người không nhận phải báo cho các người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia gia sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban công chúng xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc chối từ nhận gia sản.

Điều kiện để được công nhận quyền hưởng di sản thừa kế
Điều kiện để được công nhận quyền hưởng di sản thừa kế

Thời hạn không nhận đồng ý nhận di sản là sáu tháng, diễn ra từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ khước đồng ý nhận gia sản thì được coi là chấp nhận thừa kế.”

Luật pháp thừa kế của Việt Nam nguyên tắc người thừa kế có quyền đồng ý nhận di sản hoặc chối từ đồng ý nhận tài sản nếu sự không nhận quyền hưởng tài sản của người thừa kế phù hợp với các điều kiện mà pháp luật đã nguyên tắc. Sự khước từ quyền hưởng gia sản của người thừa kế được quy định trong điều luật pháp nêu trên quy định thời hiệu có hiệu lực của sự chối từ, hình thức và hồ sơ từ chối quyền hưởng tài sản và hoàn cảnh không có quyền khước từ quyền hưởng gia sản. Quyền chối từ chấp nhận tài sản thừa kế được luật pháp cho phép nếu hợp lý với điều kiện, quy định, thời hạn dựa trên nguyên tắc tại Điều 642 BLDS.


Chối từ quyền hưởng thừa kế theo di chúc cũng là sự miêu tả ý chí của người được xác định thừa kế theo như di chúc đã không muốn sở hữu thừa kế theo như sự định đoạt của người để lại tài sản. Trong trường hợp người thừa kế dựa trên di chúc cùng lúc là người thuộc hàng thừa kế dựa trên luật thừa hưởng tài sản thì việc diễn đạt ý chí của người đó có năng lực xảy ra những tình huống sau:

- Chỉ khước từ quyền hưởng thừa kế dựa theo di chúc mà ko từ chối quyền hưởng thừa kế theo luật.

- Chỉ khước từ quyền hưởng thừa kế căn cứ luật mà ko chối từ quyền hưởng thừa kế dựa theo di chúc

- Không muốn sở hữu cả quyền hưởng thừa kế căn cứ chúc thư và quyền hưởng thừa kế căn cứ luật.


Căn cứ ý thức của điều luật này, thì việc chối từ đồng ý nhận tài sản được coi là một quyền năng của người thừa hưởng thừa kế. Bên cạnh đó việc thực hiện quyền năng này chỉ được luật bằng lòng trong thời hạn 06 tháng bắt đầu từ ngày mở thừa kế; nếu quá thời hiệu kể trên, người được hưởng gia sản mới bày tỏ ý kiến về việc không muốn sở hữu chấp nhận gia sản thì việc không muốn sở hữu đó không được luật pháp chấp thuận và người đó buộc phải hài lòng việc hưởng quyền năng của mình đó là “quyền hưởng thừa kế di sản”.

Thực tiễn khắc phục tranh dành về thừa kế, rất ít trường hợp người nhận gia sản tiến hành việc không muốn sở hữu nhận di sản trong thời hiệu 06 tháng diễn ra từ ngày mở thừa kế (tức là ngày mà người để lại gia sản chết). Trong không ít bối cảnh, sau đó lúc người để lại gia sản mất hàng vài năm, việc phân chia tài sản mới được đặt ra (điều này là hoàn toàn tương ứng với phương pháp xử sự truyền thống của người Việt Nam). Lúc đó, tranh dành về thừa kế mới nảy sinh, các bên đương sự đưa nhau ra tòa, yêu cầu Tòa án khắc phục. Phổ thông người trong số các đương sự này vì ko muốn tham gia vào vụ tranh dành hoặc vì những lý do khác đã từ khước gia sản thừa kế và lúc này họ mới có ý định không muốn nhận đồng ý nhận gia sản. Các người này khiến đơn xin Tòa án cho phép họ từ khước đồng ý nhận gia sản (tức là họ từ bỏ 1 quyền năng của mình). Nếu Tòa án bằng lòng thì sẽ vi phạm quy định về thời hiệu chối từ tài sản dựa trên Điều 642 Bộ luật pháp dân sự. Nếu Tòa án không cho họ tiến hành quyền năng này, rõ ràng ý chí định đoạt quyền năng của họ đã ko được đảm bảo.

Nhận xét